Friday 18 January 2013

Về Đề án Công ty mua bán nợ quốc gia (VAMC) (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=270110

09:31 | 19/01/2013
Theo kế hoạch, Đề án Công ty mua bán nợ quốc gia (VAMC) sẽ được trình Bộ Chính trị cho ý kiến và quyết định trong tháng 1 này, sau khi Chính phủ thảo luận hôm 27.12.2012. Hiện đã có một số thông tin đồn đoán về hình thức hoạt động của VAMC khi được thành lập, trong số đó những thông tin liên quan như cách thức định giá trị nợ xấu và nguồn tài chính để mua nợ xấu.
Về giá trị nợ xấu khi VAMC mua, một số báo cho biết, giá mua nợ xấu sẽ là giá trị sổ sách của khoản nợ xấu đó. Đây là điều khá ngạc nhiên vì nó quá “hào phóng” với ngân hàng có nợ xấu phải bán cho VAMC, trong khi đó lại có khả năng gây thiệt hại lớn cho VAMC. Chắc chắn các ngân hàng sẽ thích nếu VAMC mua nợ xấu theo giá trị sổ sách vì điều này vừa giúp ngân hàng làm sạch bảng cân đối kế toán, vừa giúp ngân hàng không phải ghi nhận lại toàn bộ tổn thất tín dụng ngay khi bán nợ xấu (là khoản tổn thất sẽ phát sinh nếu VAMC mua lại khoản nợ xấu theo giá trị tại thời điểm mua, như cách làm hiện nay của Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC)).
 
Điều đáng nói là, giá trị theo sổ sách theo cái nghĩa mà báo chí phỏng đoán dựa vào phát biểu của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là giá trị ban đầu của khoản nợ, ví dụ là 100 đồng, trừ đi dự phòng rủi ro đã trích lập, ví dụ là 70 đồng, còn 30 đồng và VAMC chỉ cần trả 30 đồng này cho ngân hàng thì ngân hàng đó hết nợ xấu.
 
Nếu tính như trên thì 30 đồng đó không thể gọi là “giá trị theo sổ sách” của khoản nợ xấu được, mà phải gọi cho chính xác là “giá trị còn lại theo sổ sách” của khoản nợ xấu.
 
Điều đáng nói hơn là sẽ có khả năng dự phòng rủi ro đã trích lập thấp hơn nhiều so với con số 70 đồng nói trên, ví dụ chỉ 20 đồng, giả thiết là mức dự phòng phù hợp với các quy định trích lập dự phòng của NHNN tại thời điểm diễn ra đánh giá và mua bán nợ xấu giữa ngân hàng có nợ xấu và VAMC. Lúc đó, liệu VAMC sẽ/nên nhắm mắt chấp nhận mua khoản nợ xấu trên với giá 100 đồng – 20 đồng = 80 đồng, trong khi khả năng bán lại với cái giá 80 đồng là chưa biết, và hoàn toàn có thêm khả năng là chất lượng khoản nợ tiếp tục xấu đi sau khi VAMC mua? Nói cách khác, nếu mua bán dựa vào giá trị còn lại theo sổ sách của khoản nợ xấu thì VAMC luôn là người nắm đằng lưỡi dao, cho dù trên thực tế có thể là ngân hàng thương mại bị bắt buộc phải bán khoản nợ xấu đó cho VAMC khi tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng đó đã vượt ngưỡng cho phép (chẳng hạn là 3% trên tổng dư nợ), chứ không phải là họ thực sự muốn tống khứ khoản nợ xấu đó khỏi bảng cân đối của mình bằng mọi giá.
 
Về nguồn tài chính mua nợ xấu, cũng vẫn theo những thông tin được hé lộ trong tuần qua trên một số báo phỏng đoán, thì VAMC sẽ hạn chế dùng tiền mặt (từ ngân sách), mà chủ yếu sẽ dựa vào phát hành trái phiếu xử lý nợ và các công cụ nợ là giấy tờ có giá (giấy chứng nhận nợ) để mua nợ xấu từ ngân hàng thương mại. Cách làm này sẽ hạn chế thiệt hại cho VAMC khi VAMC không thanh lý được khoản nợ xấu và thu hồi vốn đã bỏ ra. Lúc đó, thiệt hại cho VAMC chỉ là chi phí xử lý và chi phí quản lý khoản nợ xấu, chứ không phải là phần vốn bỏ ra khi mua nợ xấu.
 
Nếu Đề án có cách làm đúng như phỏng đoán như trên thì thực tế sẽ là VAMC vẫn bị thiệt hại! Hoặc nói đúng hơn là VAMC vẫn phải có trách nhiệm với phần vốn tương đương với giá trị của khoản nợ xấu khi mua từ ngân hàng thương mại lúc ban đầu. Hãy hình dung khi VAMC thanh toán cho ngân hàng bán nợ bằng các trái phiếu xử lý nợ, giấy chứng nhận nợ, trong đó có ghi các điều khoản cam kết về giá trị khoản nợ và lãi suất, thời hạn thanh toán mà VAMC sẽ phải chịu trách nhiệm v.v... và ngân hàng đó đưa những trái phiếu, giấy chứng nhận nợ đó vào lưu thông, ví dụ bán lại cho một nhà đầu tư nào đó. Giả thiết nhà đầu tư thứ cấp này giữ trái phiếu, giấy chứng nhận nợ đó cho đến ngày đến hạn thanh toán, lúc đó ông ta sẽ đến VAMC để đòi thanh toán cả vốën lẫn lãi và VAMC phải có trách nhiệm thanh toán chúng. Trường hợp này cũng tương tự như trường hợp Kho bạc Nhà nước phát hành trái phiếu Chính phủ và chúng được đưa vào mua bán trên thị trường. Dù trao tay ít hay nhiều thì rốt cuộc Kho bạc Nhà nước (Chính phủ) vẫn phải có trách nhiệm chi trả khi trái phiếu đến hạn cho người sở hữu cuối cùng.
 
Có thể những người soạn thảo Đề án cho rằng trái phiếu xử lý nợ và giấy chứng nhận nợ không phải là trái phiếu hoặc các giấy tờ có giá như thông thường như ta nói ở trên, mà là một loại chứng chỉ thanh toán chỉ có giá trị giữa 2 bên, VAMC và ngân hàng thương mại bán nợ xấu. Nếu vậy, hành động mua bán nợ xấu giữa VAMC và ngân hàng chỉ thuần túy là hành động hoán đổi tài sản (có giá trị nội bộ) cho nhau. Trong chừng mực mà VAMC không/chưa thanh lý được khoản nợ xấu (cho một bên thứ 3) thì sẽ không có dòng tiền phát sinh để VAMC trả cho ngân hàng và ngân hàng có thể dùng nó mà xóa nợ xấu khỏi bảng cân đối tài sản của mình. Và như vậy thì việc chuyển nợ xấu từ ngân hàng sang cho VAMC (và cho đến tận lúc khoản nợ xấu được VAMC bán tiếp đi và thu tiền về trả cho ngân hàng) sẽ không giúp gì cho việc giảm nợ xấu của ngân hàng cả.
 
Nói tóm lại, rốt cuộc thì rủi ro trong xử lý nợ xấu vẫn thuộc về VAMC, và tức là thuộc về ngân sách, cho dù mới chỉ xét đến 2 khía cạnh chính có khả năng thành hiện thực thông qua đồn đoán liên quan đến Đề án – xác định giá trị nợ xấu và nguồn tài chính để mua nợ xấu. Nói cách khác, muốn hay không thì khi thành lập VAMC, Chính phủ vẫn phải rót vốn ngân sách để VAMC dùng tiền đó mua nợ xấu từ ngân hàng thương mại. Nếu ngân sách đã trống rỗng thì, không còn cách nào khác, NHNN buộc phải in tiền cho VAMC vay để hoạt động, và cũng có nghĩa là làm tăng áp lực lạm phát sau đó.
 
Mong những người soạn thảo Đề án lường trước được những tình huống nêu trong bài để tránh cho “sự đã rồi” khi ban hành nó.

4 comments:

  1. Mấy bữa nay em cũng có theo dõi vấn đề VAMC này. Em thấy bác Bình nói chuyện ngộ ghê ấy, bảo là xử lý nợ xấu không dùng đến tiền ngân sách mà bằng cách phát hành trái phiếu. Bộ bác ấy không biết là phát hành trái phiếu khi trái phiếu đến hạn thì cũng phải trả nợ sao, hay bác ấy tính xù trái chủ? Còn có bài báo lại bảo là phát hành trái phiếu không có giá trị tại thời điểm đến hạn và NHTM phải chịu trách nhiệm về việc thanh lý nợ xấu này, như vậy thì đúng như bác Ngọc nói, đâu có giúp ích gì cho hệ thống ngân hàng. Nếu có, phương án đó chỉ delay việc ghi nhận lỗ của ngân hàng thôi, nếu có thêm thì là dòng cash flow vào khi bên VAMC trả lãi định kỳ của các khoản trái phiếu đó. Nhìn chung, em thấy các đề xuất của NHNN được đăng một cách không chính thức trên các bài báo mấy ngày gần đây thật là kỳ lạ và không hề giống như cách làm của những nước khác. Theo ý kiến của bác, bác có cho rằng việc thành lập một AMC để giải quyết nợ xấu là khả thi không?

    ReplyDelete
    Replies
    1. Nói cho nhanh và dễ hiểu thì tớ thấy thế này. Các đồng chí “ấy” đã/đang chơi trò lập lờ đánh lận con đen, úp mở rằng nhà nước không có tiền đâu (như anh X nhà tớ đã thật thà bộc bạch vậy) hoặc không cần phải dùng tiền ngân sách để giải quyết nợ xấu, là một cách hoặc là để xù nợ, hoặc là để “an dân” (nếu nói khơi khơi như các bố chuyên gia rằng phải dùng ngân sách hoặc tiền giấy từ NHNN thì thiên hạ chửi chết à?).
      (Đã) trót nói vậy rồi thì mọi cái liên quan đến nghĩa vụ/giải pháp của nhà nước, ví như cái VAMC, phải được đưa ra thế nào đó để người ta hiểu theo cái hướng là như vậy. Anh Binh Duồi và anh X-không-có- Y-Z tưởng ai cũng tư duy cao siêu được như các anh ấy nên cứ yên tâm là mọi việc theo đúng ý đồ. Nhưng hóa ra còn có những người như đồng chí Thanh Nguyen này tư duy tất nhiên là không cao siêu như 2 ảnh, thế có chết tớ không cơ chứ?
      Còn theo ngu ý của tớ với câu hỏi của đồng chí Thanh Nguyên cao siêu bằng phân nửa của 2 anh ở trển, thì việc dùng AMC giải quyết nợ xấu đương nhiên là khả thi (hơn nếu không dùng). Tớ cũng có ủn ỉn vài lần đâu đó trên báo hay ở blog này rằng dùng AMC cũng (chỉ) là một trong nhiều cách để giải quyết nợ xấu, và đương nhiên là có tác dụng trong chừng mực nào đấy (ít nhất thì dùng để mua lại một cách hợp pháp các món nợ xấu coi như mất hẳn, như các món nợ của Vina+++, và sau đó “xử lý” chúng bằng ngân sách, một cách làm mà như thế nào thì chỉ có AMC và nhà nước biết với nhau).
      Còn nếu đồng chí Thanh Nguyen ý muốn hỏi rằng việc thành lập AMC là có khả thi hay không (xin lỗi ngay đồng chí là tớ hơi chậm hiểu) thì tớ cũng chỉ cần nói nhõn thế này, rằng chẳng có việc gì ở Việt Nam mà không khả thi cả. Không có thì làm cho có, thế thôi! Tay không còn bắt được (nhiều) giặc mà, ở Việt Nam ấy, đầy!

      Delete
  2. Khổ quá, em hỏi có khả thi hay không là hỏi về mặt kinh tế học cơ! Nghĩa là khi so sánh chi phí và lợi ích thì Việt Nam có nên thành lập VAMC hay không? Chứ vấn đề duy ý chí thì nói làm gì nữ!.

    Mà bác Bình nhà mình hay thật, lên báo chí bảo không dùng tiền ngân sách là một số các bác chuyên gia nghe theo và ủng hộ liền, chẳng thấy mấy ai phản đối những tuyên bố hết sức "kỳ lạ" của bác ấy (Em chờ mãi mới thấy bác Ngọc lên tiếng đây!)

    Mà em nói, nợ của Vina+++ thì ngân sách nhà nước phải chi ra xử lý là đúng rồi, ai bảo chỉ định cho vay làm chi, không lẽ bắt ngân hàng phải chịu sao? Mà nếu chỉ để làm việc ấy và repo NPLs như bài báo này (http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/cua-mo-20130118041149467ca34.chn) đã đăng thì NHNN và Bộ Tài Chính tự xử luôn đi, lập ra VAMC làm gì cho tốn giấy mực của báo chí, bác nhỉ!

    ReplyDelete
    Replies
    1. Tớ thấy đồng chí đã đưa ra một vấn đề khá hay và hóc búa. Tớ nói thật là không thể trả lời câu hỏi này được vì (chắc) nó chỉ có thể được trả lời bởi các empirical studies, là cái mà tớ chưa/không có điều kiện để làm, để search literature giúp đồng chí được. Nếu đồng chí đang hoặc sẽ làm nghiên cứu (sinh) thì đây là một đề tài đáng để làm đấy. Tớ gợi ý một cách làm là dùng số liệu của các nước vướng phải NPLs ở quy mô lớn để chạy một hàm số trong đó biến phụ thuộc là GDP hoặc phí tổn gây ra cho ngân sách, và một trong những dummy là việc có dùng AMC hay không.


      Về các tin tức liên quan đến VAMC, thực ra tớ đã viết bài này từ trước đó mấy ngày (hình như sau khi đọc bài liên quan trên TBKTSG) nhưng tờ Đại biểu Nhân dân lại sắp xếp bài của tớ ra vào số thứ 7, nên hơi chậm tính thời sự nhu đồng chí nói. Còn về các chuyên ra ở Việt Nam thì nói làm gì. Hình như có người khi bình luận với tớ (về một vài người trong số đó), đã dùng từ “điếm bút”. Tớ thì cho rằng không chỉ là vậy mà còn vì họ cũng có tư duy cao siêu như mấy ảnh nhà ta.

      Còn về việc lập VAMC để xử lý các NPLs của Vina+++ thì như tớ đã nói, đây là một kênh để “rửa” trôi các NPLs một cách hợp pháp và … kín kẽ vì chẳng ai biết nó được xử lý thế nào, ra sao, bao giờ… trừ những người trong cuộc. Nếu làm theo như đồng chí nghĩ (công khai nhận trách nhiệm rồi dùng ngân sách để trả cho các ngân hàng) thì đã không phải là Việt Nam nữa rồi, đã không phải là các ảnh nữa rồi, mặc dù tớ cũng TỪNG ngây thơ như đồng chí!

      Delete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).